TP HCM: Đến lượt ông Nguyễn Thành Tài bị bắt

Hiếu Nguyễn

Cơ quan cảnh sát điều tra, Bộ Công an vừa tiến hành khởi tố, bắt tạm giam nguyên Phó Chủ tịch TP.HCM Nguyễn Thành Tài.

Ngày 8/12/2018, theo thông tin chính thức từ Cổng thông tin Bộ Công An, thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Bộ Công an (C01) đã tiến hành điều tra vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 42/QĐ-C01-P4 ngày 8/11/2018.

Quá trình điều tra mở rộng vụ án "Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại TP Hồ Chí Minh liên quan đến khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng, quận 1, TP Hồ Chí Minh, ngày 8/12/2018, Cơ quan CSĐT Bộ Công an (C01) đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015, xảy ra tại TP Hồ Chí Minh liên quan đến khu đất 8-12 Lê Duẩn, Quận 1, TP Hồ Chí Minh.

Cơ quan điều tra cũng khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP HCM nhiệm kỳ 2011-2015, cùng về tội danh trên.

TP HCM: Đến lượt ông Nguyễn Thành Tài bị bắt - Ảnh 1

Khu đất vàng 8-12 Lê Duẩn đang được UBND TP.HCM tiến hành thủ tục thu hồi. Ảnh: HOÀNG GIANG

Thông tin từ Bộ Công An nêu rõ như sau: 

Quá trình điều tra mở rộng vụ án ‘Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại TP Hồ Chí Minh liên quan đến khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng, Quận 1, TP Hồ Chí Minh, ngày 08/12/2018, Cơ quan CSĐT Bộ Công an (C01) đã tiến hành các biện pháp tố tụng:

- Ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015, xảy ra tại TP Hồ Chí Minh liên quan đến khu đất 8-12 Lê Duẩn, Quận 1, TP Hồ Chí Minh.

- Ra các quyết định khởi tố bị can, lệnh khám xét, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị can về hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015, đối với:

1. Nguyễn Thành Tài, sinh năm 1952, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Hồ Chí Minh, hiện trú tại Phường 4, Quận 4, TP Hồ Chí Minh

TP HCM: Đến lượt ông Nguyễn Thành Tài bị bắt - Ảnh 2

Bị can Nguyễn Thành Tài.

2. Nguyễn Hoài Nam, sinh năm 1965, Bí thư quận ủy Quận 2, TP Hồ Chí Minh, nguyên Trưởng phòng Quản lý sử dụng đất, Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh, hiện trú tại phường Tân Phú, Quận 7, TP Hồ Chí Minh.

3. Đào Anh Kiệt, sinh năm 1957, nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh.

4. Trương Văn Út, sinh năm 1970, Phó trưởng phòng Quản lý đất, Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh.

Ông Nguyễn Thành Tài bị áp dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam; ông Nguyễn Hoài Nam bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Riêng các ông Đào Anh Kiệt, Trương Văn Út đã bị tạm giam trong vụ án khác.

Sau khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các quyết định phê chuẩn các quyết định tố tụng nêu trên, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã thi hành các biện pháp tố tụng đối với các bị can trên, bảo đảm tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

Hiện, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đang tiến hành điều tra mở rộng vụ án, làm rõ toàn bộ sai phạm của  các cá nhân có liên quan tại các sở, ban, ngành của TP Hồ Chí Minh, Bộ Công thương để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

TP HCM: Đến lượt ông Nguyễn Thành Tài bị bắt - Ảnh 3

Từ trái qua là các bị can Nguyễn Thành Tài; Nguyễn Hoài Nam; Đào Anh Kiệt và Trương Văn Út.

Trong 4 bị can có 3 bị can bị bắt tạm giam là: ông Tài, ông Kiệt và ông Út. Ông Nam áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Ông Nam sai phạm ở thời điểm khi còn Trưởng phòng quy hoạch sử dụng đất, Sở Tài nguyên Môi trường TP.HCM.

Trước đó, ông Kiệt đã từng bị khởi tố ở 2 vụ án liên quan đến Sabeco và Vũ "nhôm", còn ông Út từng bị khởi tố ở vụ án Sabeco.

Đây là động thái của công an sau hơn nửa tháng đề nghị Sở TN&MT cung cấp hồ sơ liên quan việc cấp giấy, chuyển nhượng khu đất 8-12 Lê Duẩn. Hiện khu đất này đang được Sở TN&MT TP.HCM làm thủ tục để tiến hành thu hồi, sau khi Thanh Tra chính phủ có những kết luận sai phạm liên quan.

Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh đưa tin, khu đất số 8­-12 Lê Duẩn thuộc sở hữu nhà nước, ban đầu do bốn đơn vị thuộc Bộ Công Thương thuê sử dụng làm trụ sở làm việc. Đó là Công ty CP Thiết bị phụ tùng Sài Gòn, Công ty CP Kim khí TP, Công ty CP Hóa chất vật liệu điện TP và Công ty CP Vận tải xăng dầu (VITACO). Công ty Quản lý kinh doanh nhà TP.HCM là đơn vị được giao quản lý, cho thuê khu nhà đất này.

Năm 2010, bốn công ty thuộc Bộ Công Thương đã chuyển nhượng quyền góp vốn cho Công ty TNHH Đầu tư Kinh Đô (nay là Công ty TNHH Đầu tư Kido). Sau vụ chuyển nhượng này, Công ty Hoa Tháng Năm và Công ty Kinh Đô cùng Công ty Quản lý kinh doanh nhà TP lập ra Công ty CP Lavenue.

Đến tháng 6-2011, UBND TP thời điểm đó, đã có quyết định chấp thuận cho Công ty CP Đầu tư Lavenue sử dụng 4.896 m2 đất tại số 8-12 Lê Duẩn để xây dựng khách sạn cao cấp, thương mại-dịch vụ, căn hộ cho thuê. Thời hạn sử dụng đất là 50 năm, hình thức sử dụng đất: Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với khu đất tại số 8 Lê Duẩn và Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê hằng năm đối với khu đất số 12 Lê Duẩn. Trong đó, duyệt giá trị quyền sử dụng đất và giá trị công trình xây dựng trên đất tại số 8 Lê Duẩn (3.433 m2), theo giá thị trường là hơn 621,7 tỉ đồng. Duyệt đơn giá thuê đất tại số 12 Lê Duẩn theo giá thị trường là hơn 3,5 triệu đồng/m2/năm.

Sau đó, đến ngày 30-6-2016, Công ty CP Đầu tư Lavenue đã nộp đủ số tiền sử dụng đất và tiền thuê đất vào ngân sách nhà nước; Sở TN&MT TP.HCM cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lavenue.

Năm 2015, TTCP có kết luận về việc thanh tra trách nhiệm của ông Lê Hoàng Quân, Chủ tịch UBND TP.HCM thời điểm đó, trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Theo kết luận này, TTCP kiến nghị giao chủ tịch UBND TP.HCM rà soát và thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thường trực Thành ủy về kết luận thanh tra tại dự án số 8-12 Lê Duẩn. Trong đó có vi phạm về việc giao đất, cho thuê đất không đúng quy định.

Năm 2016, TTCP có báo cáo kết luận. Theo đó, UBND TP.HCM có sai phạm trong việc không tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu giá tài sản trên đất tại khu nhà đất số 8-12 Lê Duẩn. “Trách nhiệm chung thuộc về chủ tịch UBND TP.HCM, trách nhiệm trực tiếp thuộc về cá nhân ông Nguyễn Thành Tài, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP.HCM nhiệm kỳ 2011-2015” - TTCP nêu rõ.

Cơ quan thanh tra cũng chỉ ra trách nhiệm của Sở KH&ĐT, Sở TN&MT, Sở Tài chính, Sở Quy hoạch-Kiến trúc, Công ty TNHH MTV Quản lý kinh doanh nhà TP và bốn công ty thuộc Bộ Công Thương.

TTCP cũng đề nghị thu hồi khu đất số 8-12 Lê Duẩn để bán đấu giá. Theo cơ quan này, việc đấu giá có thể thu về khoảng 2.000 tỉ đồng. Theo TTCP, việc thu hồi để đấu giá theo quy định không những giữ kỷ cương pháp luật và tăng thu cho ngân sách mà còn có thể để hoàn trả chi phí hợp lý cho đơn vị đang thực hiện đầu tư là Công ty CP Đầu tư Lavenue.

Mới đây, chủ đầu tư dự án trên gửi đơn cho Thủ tướng CP khiếu nại việc bị thu hồi khu đất vì cho rằng không phải lỗi của doanh nghiệp và đề nghị tiếp tục được thực hiện dự án tại đây.

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định, hướng dẫn tại Điều 228, điều 229 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau:

 1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);

b) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;  

c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 

a) Có tổ chức; 

b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2); 

c) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp; 

d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;  

b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp. 

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

-

Điều 219. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí

1. Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

a) Vì vụ lợi;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tin Cùng Chuyên Mục