Vì sao Bill Gates hay nói "Đó là điều ngu ngốc nhất tôi từng nghe!" với nhân viên

Theo Hải Bình/ Biography

Doanh nhân Bill Gates sáng lập ra công ty phần mềm lớn nhất thế giới, Microsoft, cùng với Paul Allen, và trở thành một trong những người đàn ông giàu có nhất thế giới.

Phong cách quản lý của Bill Gates trở thành huyền thoại bởi ông thường thách thức các nhân viên và ý tưởng của họ để thúc đẩy sự sáng tạo.

Mọi người có thể nghe thấy Gates nói: “Đó là điều ngu ngốc nhất tôi từng nghe!”, nhưng đây là một thử nghiệm của Gates dành cho các nhân viên trong công ty. Ông luôn kiểm tra những người xung quanh để xem ý tưởng họ có thực sự thuyết phục được ông hay không.

Tiếp theo kỳ trước, hãy cùng theo dõi series Chân dung 100 người giàu nhất thế giới, và kỳ này là tỷ phú Bill Gates.  

Bill Gates là ai?

Doanh nhân Bill Gates (sinh ngày 28/10/1955 tại Seattle, Washington) cùng cộng sự là Paul Allen, sáng lập công ty phần mềm lớn nhất thế giới, Microsoft, qua sự cải tiến về công nghệ, chiến lược kinh doanh xuất sắc và phương thức hoạt động mạnh mẽ.

Vì sao Bill Gates hay nói
Doanh nhân, nhà từ thiện Bill Gates (1955-)

Tháng 2/2014, Gates thông báo ông sẽ rời ghế chủ tịch để tập trung vào công việc từ thiện tại quỹ tài trợ của ông, Quỹ Bill & Melinda Gates.

Tài sản

Tháng 3/1986, Bill Gates niêm yết Microsoft trên sàn chứng khoán với giá lần đầu phát hành là 21 USD/cổ phiếu, ngay lập tức biến ông thành triệu phú ở tuổi 31. Gates nắm giữ 45% trong tổng số 24,7 triệu cổ phiếu, tương đương cổ phần lúc đó của ông đạt 234 triệu USD trong tổng số 520 triệu USD của Microsoft.

Qua thời gian, cổ phiếu tăng giá trị và được tách nhiều lần. Năm 1987, Bill Gates trở thành tỷ phú khi giá cổ phiếu đạt 90,75 USD/cổ phiếu. Từ đó, Gates luôn đứng trong top đầu, hoặc ít nhất là gần top những người giàu có nhất nước Mỹ.

Năm 1999, với giá cổ phiếu luôn ở mức cao và đã được tách 8 lần kể từ lần phát hành đầu tiên, Gates nắm giữ khối lượng tài sản lớn nhất thế giới, đạt 101 tỷ USD.

Gia đình

Năm 1987, một người quản lý sản phẩm của Microsoft, 23 tuổi, tên là Melinda French lọt vào mắt của Bill Gates, 32 tuổi. Melinda rất thông minh và quy củ, là một mảnh ghép hoàn hảo dành cho Gates. Theo thời gian, mối quan hệ của họ ngày càng phát triển và ngày 1/1/1994, họ đã tổ chức hôn lễ ở Hawaii.

Sau khi mẹ ông mất vì bệnh ung thư vú chỉ ít tháng sau đám cưới, năm 1995, Bill và Melinda đã dành thời gian để đi du lịch và thấy được viễn cảnh về cuộc đời, về thế giới.

Năm 1996, cô con gái đầu tiên của họ, tên là Jennifer, ra đời. Sau đó là cậu con trai Rory, sinh năm 1999 và cuối cùng là cô con gái thứ 2, Phoebe, sinh năm 2002.

Quỹ Bill & Melinda Gates

Năm 1994, Bill và Melinda thành lập Quỹ William H. Gates, hỗ trợ cho nền giáo dục, sức khỏe thế giới và các cộng đồng có thu nhập thấp. Với sự tác động của Melinda, Bill đã suy nghĩ về công việc từ thiện của những người anh cả trong ngành công nghiệp Mỹ, Andrew Carnegie và John D. Rockefeller. Ông nhận ra rằng ông có nghĩa vụ phải quyên góp tài sản của mình nhiều hơn cho quỹ từ thiện.

Năm 2000, cả hai vợ chồng đã kết hợp với nhiều quỹ gia đình và đóng góp 28 tỷ USD để thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates.

Cùng năm đó, Bill Gates chuyển giao dần hoạt động của Microsoft, giao lại vị trí CEO cho người bạn đại học Steve Ballmer, người đã đồng hành cùng công ty từ năm 1980. Ông giữ vị trí kiến trúc sư trưởng thiết kế phần mềm, đồng thời ông vẫn là chủ tịch hội đồng quản trị.

Một vài năm sau, Quỹ Bill & Melinda Gates chiếm nhiều thời gian và cả niềm đam mê của ông. Năm 2006, Gates thông báo ông sẽ không làm việc đủ giờ ở Microsoft nữa, để dành nhiều thời gian hơn cho quỹ từ thiện. Ngày làm việc đủ giờ cuối cùng của ông ở Microsoft là ngày 27/6/2008.

Tháng 2/2014, Gates rời ghế chủ tịch hội đồng quản trị của Microsoft và chỉ giữ chức cố vấn công nghệ; CEO Steve Ballmer được thay thế bởi ông Satya Nadella, 46 tuổi.

Gates tiếp tục cống hiến phần lớn thời gian và năng lượng của mình cho công việc ở quỹ từ thiện. Tổ chức giải quyết các vấn đề trong nước và quốc tế, như sức khỏe và giáo dục, giúp đỡ các học sinh sẵn sàng vào đại học.

Năm 2015, Gates đã lên tiếng ủng hộ các tiêu chuẩn quốc gia Common Core từ mẫu giáo đến lớp 12. Gates cũng chứng minh mình là một ông chủ tuyệt vời khi thông báo rằng quỹ sẽ cho nhân viên được nghỉ phép 1 năm có trả lương sau khi họ sinh con hoặc nhận nuôi trẻ.

Năm 2017, quỹ ra mắt báo cáo hàng năm lần đầu tiên, đánh giá tiến trình làm việc trong nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến sức khỏe cộng đồng, bao gồm tỷ lệ tử vong của trẻ, suy dinh dưỡng, HIV. Thời gian này, Gates nhận định bệnh truyền nhiễm và bệnh mãn tính là 2 vấn đề lớn nhất về sức khỏe cộng đồng, cần được quan tâm trong thập kỷ tới.

Tháng 4/2018, Gates thông báo ông và người đồng sáng lập Google Larry Page sẽ tài trợ 12 triệu USD để nghiên cứu vắc xin chống các loại bệnh cúm. Ông cho biết quỹ này sẽ trao các khoản tài trợ lên đến 2 triệu USD cho sự nỗ lực của các cá nhân “táo bạo và sáng tạo”, với mục tiêu bắt đầu thử nghiệm vào năm 2021. Mặc dù một số người cho rằng 12 triệu USD không đủ để tạo ra bất kỳ sự đột phá y học nào, thì một số khác lại đánh giá cao mục đích đằng sau sự đầu tư này, trong khi đó Gates cho biết có thể sẽ còn nhiều hơn nữa.

Nghiên cứu bệnh Alzheimer và ‘Thành phố Thông minh’

Tháng 11/2017, Gates cho biết ông sẽ đầu tư 50 triệu USD vào Quỹ Nghiên cứu Bệnh mất trí, và 50 triệu vào dự án khởi nghiệp nghiên cứu bệnh Alzheimer. Đây có thể được coi là vấn đề cá nhân của Gates khi các thành viên trong gia đình ông đều mắc phải căn bệnh này.

“Bất kỳ phương pháp điều trị nào cũng đều là một bước tiến lớn so với chúng ta hiện tại, mục tiêu dài hạn là cách để trị bệnh”, ông phát biểu trên báo CNN.

Cùng thời gian này, một trong các công ty của Gates đã đầu tư 80 triệu USD vào sự phát triển của ‘thành phố thông minh’ gần Phoenix, Arizona. Thành phố tên Belmont, sẽ “tạo ra một cộng đồng suy nghĩ tiến tới với cơ sở hạ tầng bao gồm công nghệ tiên tiến, được thiết kế bao quanh mạng lưới số tốc độ cao, các trung tâm dữ liệu, các công nghệ sản xuất mới và các kiểu phân phối như xe tự lái, các trung tâm hậu cần tự trị”, Tập đoàn đầu tư bất động sản Belmont Partners cho biết.

Trong khoảng 25,000 mẫu đất được dùng cho dự án, có đến 3,800 mẫu được sử dụng để làm văn phòng, nơi giao dịch và bán lẻ, và 470 mẫu được dùng để xây dựng trường học, còn lại để dành cho 80,000 đơn vị dân cư.

Gia đình và thời niên thiếu

Bill Gates lớn lên trong một gia đình khá giả cùng với người chị gái, Kristianne và em gái, Libby. Cha của họ, William H. Gates Sr., từng là một cậu sinh viên luật đầy triển vọng nhưng hơi nhút nhát khi ông gặp người vợ tương lai của mình, Mary Maxwell. Bà là cô sinh viên mạnh mẽ và thân thiện, học ở trường đại học Washington, tích cực tham gia vào các hoạt động sinh viên và lãnh đạo. Không khí gia đình nhà Gates rất đầm ấm và gần gũi, 3 đứa trẻ được khuyến khích cạnh tranh với nhau và phấn đấu đạt kết quả tốt nhất. Bill đã sớm thể hiện là một cậu bé có tính cạnh tranh cao khi chơi rất tốt các môn thể thao gia đình vào mỗi dịp hè cả nhà đến eo biển Puget nghỉ dưỡng. Ông cũng hứng thú với các trò chơi trên bàn như Thế chiến bùng nổ và Cờ tỷ phú.

Bill rất thân với mẹ, người đã từ bỏ công việc dạy học để dành thời gian nuôi dạy những đứa con của mình và làm các công việc dân sự, từ thiện. Bà cũng từng làm việc ở nhiều doanh nghiệp như Ngân hàng First Interstate ở Seattle (được thành lập bởi ông của bà), tổ chức phi lợi nhuận United Way và tập đoàn công nghệ International Business Machines (IBM). Bà thường đưa Bill đi cùng mỗi dịp bà làm tình nguyện ở các trường học hoặc các tổ chức vì cộng đồng.

Học vấn

Bill là một cậu bé ngốn sách khi còn nhỏ, ông đã dành rất nhiều thời gian nghiền ngẫm các cuốn sách như bách khoa toàn thư. Khoảng 11, 12 tuổi, cha mẹ Bill bắt đầu để tâm đến các hoạt động của ông. Mặc dù thời điểm đó, ông học rất tốt ở trường, nhưng dường như ông hơi lãnh đạm, và cha mẹ ông đã lo sợ rằng ông sẽ bị cô lập một mình. Năm Bill 13 tuổi, cha mẹ ông đăng kí cho ông học ở ngôi trường chuyên biệt Lakeside. Ông đạt thành tích xuất sắc hầu hết các môn học, không chỉ toán và khoa học, mà còn cả kịch và tiếng anh.

Trong thời gian ông học ở đây, một công ty máy tính ở Seattle đã đề nghị cung cấp thời gian chơi máy tính cho học sinh. Hội phụ huynh đã dùng tiền kiếm được từ việc bán các đồ lặt vặt của trường để mua cho học sinh sử dụng. Bill Gates đã bị mê hoặc bởi những gì máy tính có thể làm được và dành nhiều thời gian rảnh để làm việc với nó. Ông đã viết trò chơi tic-tac-toe (XO) bằng ngôn ngữ máy tính cơ bản, cho phép người dùng đấu với máy tính.

Gates tốt nghiệp trường Lakeside năm 1973. Ông đạt kết quả 1590/1600 điểm trong bài thi SAT, một thành tựu về trí tuệ ông lấy làm kiêu hãnh khi giới thiệu bản thân mình với mọi người.

Gates đỗ vào trường đại học Harvard mùa thu năm 1973, vốn nghĩ sẽ theo nghề luật. Nhưng năm đầu tiên đại học, ông dành nhiều thời gian ở phòng máy hơn là ở lớp. Gates không có kế hoạch học tập. Thay vào đó, ông chỉ dành ra vài tiếng để nhồi nhét trước khi thi và vừa đủ để qua môn. 2 năm sau, cha mẹ ông cảm thấy sụp đổ khi ông bỏ học để theo đuổi công việc kinh doanh của mình, Microsoft, cùng với cộng sự Paul Allen, năm 1975.

Bill Gates và Paul Allen

Gates gặp Paul Allen, lớn hơn ông 2 tuổi, tại ngôi trường Lakeside. Hai người trở thành bạn nhanh chóng, có cùng niềm đam mê với máy tính, cho dù họ là 2 con người có tính cách rất khác nhau. Allen cẩn trọng và nhút nhát trong khi Bill nóng nảy và hiếu chiến hơn. Mặc dù vậy, cả 2 đều dành thời gian rảnh để cùng nhau viết các chương trình. Đôi khi, họ bất đồng quan điểm và sẽ cãi nhau xem ai đúng hoặc ai nên chạy máy tính. Hay có lần, họ tranh cãi gay gắt đến mức Allen đuổi Gates ra khỏi phòng máy.

Có một thời gian, Gates và Allen bị trường cấm dùng máy tính vì đã lợi dụng các lỗi phần mềm của công ty cung cấp máy tính để có thêm thời gian dùng máy miễn phí. Sau thời gian bị cấm, họ được phép quay lại phòng máy khi đề nghị sẽ gỡ bỏ chương trình. Trong khoảng thời gian này, Gates đã phát triển một chương trình về bảng lương cho công ty máy tính đó và một chương trình lập kế hoạch cho trường.

Năm 1970, ở tuổi 15, Bill Gates và Paul Allen đã cùng nhau kinh doanh, phát triển “Traf-o-Data”, một phần mềm máy tính giám sát mẫu lưu lượng ở Seattle. Họ nhận được 20,000 USD cho thành quả của mình. Gates và Allen muốn mở công ty riêng, nhưng cha mẹ Gates muốn ông hoàn thành việc học và học tiếp đại học, họ hy vọng ông sẽ trở thành một luật sư.

Allen học ở đại học bang Washington, trong khi Gates học ở đại học Harvard, tuy vậy cả 2 vẫn giữ liên lạc. Sau khi học đại học được 2 năm, Allen bỏ học và chuyển đến Boston, Massachusetts, để làm việc cho Honeywell. Cũng trong khoảng thời gian này, ông đã cho Gates đọc tạp chí Popular Electronics, đặc biệt là bài báo về bộ phụ kiện máy tính mini Altair 8800. Cả 2 chàng trai đều cảm thấy hứng thú với những khả năng mà máy tính có thể tạo ra cho thế giới.

Altair được sản xuất bởi một công ty nhỏ ở Albuquerque, New Mexico, tên là Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS). Gates và Allen đã liên hệ với công ty, nói rằng họ đang viết một chương trình phần mềm BASIC điều hành máy tính Altair. Trên thực tế, họ chẳng có máy tính Altair để làm hay bộ mã hóa để chạy phần mềm, nhưng họ muốn biết liệu MITS có hứng thú với việc một ai đó sẽ phát triển phần mềm kiểu như vậy.

MITS có hứng thú, và chủ tịch công ty, Ed Roberts, đã yêu cầu 2 chàng trai chứng minh. Gates và Allen đã dành 2 tháng sau đó để viết phần mềm ở phòng máy của đại học Harvard. Allen đã đến Albuquerque để thử nghiệm tại MITS, mặc dù chưa từng thử nghiệm trên bất kỳ máy tính Altair nào, nó chạy rất mượt. Allen được thuê làm việc tại MITS, và Gates sau đó cũng bỏ học để làm việc với Allen. Cả 2 cùng nhau sáng lập Microsoft.

Paul Allen làm việc ở Microsoft đến năm 1983, khi ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư máu (bệnh Hodgkin). Mặc dù bệnh tình có thuyên giảm sau 1 năm chữa trị, Allen vẫn từ bỏ công ty. Có nhiều lời đồn đại xung quanh việc Allen rời Microsoft. Có người nói rằng Bill Gates ép Allen rời đi, nhưng phần đông cho rằng đã có một trải nghiệm làm thay đổi cuộc sống của Allen và ông nhận thấy được nhiều cơ hội đầu tư khác.

Bill Gates và Microsoft

Micro-Soft, được kết hợp bởi 2 từ ‘micro-computer’ và ‘software’ (1 năm sau đó, họ bỏ dấu nối giữa 2 từ, trở thành Microsoft). Mặc dù công ty được thành lập trên cơ sở không hề vững chắc, năm 1979, Microsoft vẫn kiếm được gần 2,5 triệu USD và ở tuổi 23, Gates đã đứng đầu công ty. Với sự nhạy bén về phát triển phần mềm và một khả năng kinh doanh xuất sắc, ông đã dẫn dắt công ty và giữ vị trí là người phát ngôn. Gates kiểm tra tất cả các dòng mã hóa công ty thiết kế và thường tự viết lại khi ông thấy cần thiết.

Sau khi phát triển phần mềm cho IBM, giữa những năm 1979 và 1981, sự tăng trưởng của Microsoft bùng nổ. Số lượng nhân viên tăng từ 25 lên đến 128, và doanh thu tăng vọt từ 2,5 triệu USD lên 16 triệu USD. Giữa năm 1981, Gates và Allen hợp nhất Microsoft; Gates giữ vị trí CEO và chủ tịch hội đồng quản trị, Allen giữ vị trí phó chủ tịch điều hành.

Những năm đầu ở Microsoft

Ban đầu, mọi việc không hề thuận lợi. Mặc dù chương trình phần mềm BASIC của Microsoft dành cho máy tính Altair đã thu được phí và tiền bản quyền, nhưng nó không đáp ứng được chi phí của họ. Gates cho biết, chỉ có 10% số người sử dụng BASIC trên máy tính Altair thực sự trả phí. Phần mềm BASIC của Microsoft rất phổ biến đối với những người yêu thích máy tính, họ đã lấy được bản sao trước khi nó được tung ra thị trường, sau đó sao chép lại và phân phát miễn phí. Thời điểm này, họ không bán lấy tiền, mà chia sẻ cho bạn bè và những người ham mê máy tính khác. Nhưng Bill Gates lại nghĩ khác. Ông cho rằng phân phát miễn phí phần mềm là một hình thức ăn trộm, đặc biệt khi đó là một phần mềm được thiết kế để bán.

Tháng 2/1976, Gates viết một bức thư gửi đến những người yêu thích máy tính, ông nói rằng tiếp tục phân phát và sử dụng phần mềm không trả phí sẽ “làm hạn chế việc thiết kế các phần mềm tốt”. Thực chất, sao chép phần mềm bất hợp pháp sẽ khiến các nhà phát triển không còn muốn đầu tư thời gian và tiền bạc để thiết kế ra phần mềm có chất lượng. Bức thư không được truyền tải rộng rãi đến những người dùng máy tính, nhưng Gates vẫn tin vào suy nghĩ của mình và sẽ dùng mối đe dọa về sự đổi mới này như là lời biện hộ khi phải đối mặt với các cáo buộc về thủ đoạn kinh doanh không công bằng.

Gates có thái độ khá gay gắt với chủ tịch MITS Ed Roberts, và thường xảy ra các cuộc cãi vã. Gates nóng tính nảy sinh mâu thuẫn với Roberts về việc phát triển phần mềm và định hướng kinh doanh. Roberts cho rằng Gates thiếu kỷ luật và đáng ghét. Năm 1977, Roberts bán MITS cho một công ty máy tính khác và quay trở lại Georgia để học y và trở thành một bác sĩ.

Gates và Allen đã kiện chủ mới của MITS ra tòa để giữ lại bản quyền phần mềm họ đã thiết kế cho Altair. Microsoft đã viết phần mềm theo cấu trúc khác cho các công ty máy tính khác.

Đầu năm 1979, Gates chuyển công ty đến Bellevue, Washington, phía đông của Seattle. Gates cảm thấy rất vui khi được trở về nhà ở Tây Bắc Thái Bình Dương, và lao mình vào công việc. Tất cả 25 nhân viên của công ty đã phải làm mọi việc, từ phát triển sản phẩm, phát triển kinh doanh đến marketing.

Phần mềm của Microsoft cho máy tính cá nhân IBM

Khi ngành công nghiệp máy tính bắt đầu phát triển, cùng với các công ty như Apple, Intel và IBM phát triển phần cứng và các bộ phận cấu thành, Bill tiếp tục chào bán các ứng dụng phần mềm của Microsoft. Ông thường đưa mẹ đi cùng. Mary rất được kính trọng và quan hệ tốt với nhiều thành viên ban quản trị của các doanh nghiệp, bao gồm cả IBM. Và nhờ có Mary, Bill Gates đã gặp được CEO của IBM.

Tháng 11/1980, IBM tìm kiếm 1 hệ điều hành cho dòng máy tính cá nhân sắp tới và họ đã nghĩ đến Microsoft. Mọi người kể lại, tại buổi họp đầu tiên với Bill Gates, có nhân viên ở IBM đã nhầm ông với một trợ lý văn phòng và yêu cầu ông phục vụ cà phê.

Gates trông rất trẻ, nhưng ông đã nhanh chóng gây được ấn tượng với IBM, thuyết phục họ rằng công ty của ông có thể đáp ứng được yêu cầu của họ. Vấn đề duy nhất là Microsoft đã không thiết kế được hệ điều hành cơ bản cho máy tính mới của IBM. Không dừng lại ở đó, Gates đã mua 1 hệ điều hành được phát triển để chạy trên máy tính tương tự như của IBM. Ông đã thỏa thuận với người thiết kế phần mềm đó, đồng ý để Microsoft trở thành đại lý cấp phép độc quyền và sau đó sở hữu hoàn toàn phần mềm nhưng ông không nói với họ về thỏa thuận với IBM. Công ty này sau đó đã kiện Microsoft và Gates vì tội che giấu thông tin quan trọng. Microsoft đã hòa giải và trả 1 số tiền không tiết lộ, nhưng cả Gates và Microsoft đều không thừa nhận bất cứ hành động phạm pháp nào.

Gates đã sửa phần mềm mới mua để chạy trên máy tính IBM. Ông chuyển giao nó với giá 50.000 USD, bằng với giá phần mềm gốc. IBM muốn mua bộ mã hóa nguồn, cung cấp cho họ thông tin về hệ điều hành. Nhưng Gates từ chối, thay vào đó ông đề nghị IBM trả phí cấp phép bản sao của phần mềm bán cùng với máy tính của họ. Điều này cho phép Microsoft cấp đăng ký phần mềm với tên gọi MS-DOS cho bất kỳ nhà sản xuất máy tính nào. Microsoft cũng phát hành phần mềm tên gọi Softcard, cho phép Microsoft BASIC chạy được trên các thiết bị của Apple.

Năm 1983, Microsoft tiến ra thị trường quốc tế với các văn phòng đặt tại Anh và Nhật Bản, và với gần 30% máy tính trên toàn thế giới sử dụng phần mềm của họ.

Bill Gates và Steve Jobs

Mặc dù sự ganh đua của họ đã trở thành huyền thoại, nhưng Microsoft và Apple đã chia sẻ với nhau nhiều sự cải tiến ban đầu của mình. Năm 1981, ở thời kỳ Apple được dẫn dắt bởi Steve Jobs, họ đã mời Microsoft thiết kế phần mềm cho máy tính Macintosh. 

Nhờ có sự chia sẻ kiến thức này, Microsoft đã có thể phát triển được Windows, một hệ thống sử dụng chuột để chạy giao diện đồ họa, hiển thị chữ và hình ảnh trên màn hình. Nó rất khác so với hệ thống MS-DOS, tất cả chữ được hiển thị dưới dạng mã hóa và không in được. Bill Gates nhanh chóng nhận ra rằng kiểu phần mềm này sẽ đe dọa đến MS-DOS và cả Microsoft.

Gates thông báo rằng hệ điều hành mới của Microsoft sẽ được phát triển, sử dụng giao diện đồ họa. Nó được gọi là “Windows” và sẽ tương thích với tất cả các phần mềm máy tính cá nhân được phát triển trên hệ thống MS-DOS. Thông báo này là một sự lừa bịp, Microsoft không hề phát triển một chương trình nào như vậy. Nhưng là một chiến lược marketing, nó thực sự hiệu quả bởi gần 30% thị trường máy tính đang sử dụng hệ điều hành MS-DOS đã quyết định chờ hệ điều hành Windows chứ không đổi sang hệ điều hành khác.

Tháng 11/1985, gần 2 năm sau thông báo, Bill Gates và Microsoft đã cho ra mắt Windows. Bề ngoài hệ điều hành Windows khá giống với Macintosh mà Apple đã giới thiệu 2 năm trước.

Trước đó Apple đã cho phép Microsoft toàn quyền truy cập vào công nghệ của họ khi thiết kế các sản phẩm của Microsoft tương thích với máy tính của Apple. Gates đã khuyên Apple đăng ký phần mềm của họ nhưng Apple từ chối, họ cảm thấy hứng thú hơn với việc bán máy tính.

Một lần nữa, Gates đã tận dụng được tình hình và tạo ra một phần mềm tương tự như Macintosh. Apple đe dọa sẽ kiện ra tòa, và Microsoft đã trả đũa bằng cách nói rằng họ sẽ tạm hoãn việc giao các phần mềm tương thích của Microsoft cho người dùng hệ điều hành Macintosh. Cuối cùng, Microsoft đã thắng kiện bởi họ có thể chứng minh rằng mặc dù có sự tương tự trong cách thức hoạt động của 2 hệ điều hành, nhưng chức năng của mỗi hệ lại hoàn toàn khác biệt.

Doanh nhân

Sự thông minh của Bill Gates cho phép ông nhìn thấy được các khía cạnh của ngành công nghiệp phần mềm – sự phát triển của sản phẩm và chiến lược của công ty. Khi phân tích bất kỳ một bước đi nào của công ty, ông sẽ thống kê tất cả các trường hợp có thể xảy ra và suy xét chúng.

Mặc dù Microsoft rất thành công nhưng Bill Gates không cảm thấy thực sự an toàn. Luôn lo lắng về sự cạnh tranh, Gates đã tạo cho mình một tinh thần đua tranh. Gates hy vọng mọi người trong công ty cũng có tinh thần cống hiến như vậy. Trợ lý của Gates cho biết cô đã đi làm từ sớm để xem ai ngủ dưới gầm bàn. Cô đã định gọi bảo vệ hoặc cảnh sát, cho đến khi phát hiện ra đó là Gates. Phong cách quản lý của ông trở thành huyền thoại bởi ông sẽ thách thức các nhân viên và ý tưởng của họ để thúc đẩy sự sáng tạo. Mọi người có thể nghe thấy Gates nói: “Đó là điều ngu ngốc nhất tôi từng nghe!”, nhưng đây là một thử nghiệm của Gates dành cho các nhân viên trong công ty. Ông luôn kiểm tra những người xung quanh để xem ý tưởng họ có thực sự thuyết phục được ông hay không.

Ngoài công ty, Bill Gates có biệt danh là 1 đối thủ tàn nhẫn. Rất nhiều công ty công nghệ, được dẫn dắt bởi IBM, đã bắt đầu phát triển hệ điều hành của riêng họ, gọi là OS/2, để thay thế MS-DOS. Thay vì tạo áp lực, Gates đánh phủ đầu bằng phần mềm Windows, cải thiện hệ điều hành và thêm chức năng sử dụng.

Năm 1989, Microsoft ra mắt Microsoft Office, gộp các ứng dụng văn phòng như Microsoft Word và Excel thành một hệ thống tương thích với các sản phẩm của Microsoft. Các ứng dụng này không tương thích với OS/2. Windows phiên bản mới bán được 100,000 bản chỉ trong 2 tuần đầu, và OS/2 biến mất. Điều này giúp Microsoft độc quyền đối với các hệ điều hành máy tính cá nhân. Sau đó, Hội đồng Thương mại Liên bang đã tiến hành điều tra Microsoft vì những thủ đoạn tiếp thị không công bằng.

Trong suốt những năm 90, Microsoft phải đối mặt với những điều kiện ràng buộc của Hội đồng Thương mại Liên bang và các cuộc điều tra của Bộ Tư Pháp. Một số luận điệu cho rằng Microsoft đã thực hiện các thỏa thuận không công bằng với các nhà sản xuất máy tính đã cài hệ điều hành Windows. Một số khác buộc tội Microsoft ép các nhà sản xuất máy tính phải bán Internet Explorer của Microsoft như là 1 điều kiện để họ được bán hệ điều hành Windows với máy tính của họ.

Một điều nữa, Microsoft phải đối mặt với sự thay đổi của 2 bộ phận – phát triển hệ điều hành và phần mềm. Microsoft đã tự bào chữa rằng những hạn chế này là mối đe dọa đối với sự đổi mới. Cuối cùng, họ đã có thể dàn xếp với chính phủ liên bang để tránh việc tách 2 bộ phận trên.

Qua tất cả, Gates đã tìm được cách làm chệch hướng dư luận bằng việc quảng cáo nhẹ nhàng và xuất hiện công khai tại các triễn lãm thương mại máy tính. Gates tiếp tục điều hành công ty và vượt qua được các cuộc điều tra của liên bang.

Các giải thưởng

Ngoài việc trở thành 1 trong những doanh nhân giàu có và xuất sắc nhất trong lịch sử thế giới, Bill Gates còn nhận được rất nhiều giải thưởng cho các công việc từ thiện của ông. Tạp chí Time đã nhắc đến Gates như là một trong những người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Gates giữ nhiều danh hiệu tiến sĩ danh dự tại các trường đại học trên toàn thế giới. Ông được phong tước Hiệp sĩ danh dự của Hoàng gia Anh, bởi Nữ hoàng Elizabeth II năm 2005.

Năm 2006, Gates và vợ được trao giải thưởng Order of the Aztec Eagle bởi chính phủ Mexico cho những công việc từ thiện của họ trên toàn thế giới trong các lĩnh vực về sức khỏe và giáo dục.

Năm 2016, Gates và vợ được Tổng thống Barack Obama phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống, công nhận các công việc từ thiện của họ.

Đầu năm 2018, Gates thể hiện thêm nét độc đáo của mình khi thông báo rằng ông sẽ là khách mời 1 tập của bộ phim The Big Bang Theory.

Tin Cùng Chuyên Mục